Kỹ thuật phòng trị bệnh phân trắng trên tôm nuôi

Bệnh phân trắng không phải là bệnh nguy hiểm như đốm trắng, đầu vàng nhưng lây lan nhanh làm giảm năng suất, gây thiệt hại nặng nề cho bà con nuôi tôm. Bệnh thường gặp ở tôm 40 – 50 ngày tuổi trở lên, thường xuất hiện trong mùa nắng nóng, nhiệt độ nước cao, nuôi mật độ dày, cải tạo ao hồ không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.

Tác động của phân trắng đã được tìm thấy ở tôm nuôi L. vannamei & P.monodon và không có mối liên quan nào với hội chứng mềm vỏ. Mức độ nghiêm trọng của vấn đề do sự xuất hiện của phân trắng đã được quan sát thấy là một vấn đề nghiêm trọng trong quá trình nuôi tôm. Điều thú vị là vấn đề đã được quan sát thấy với các ao nuôi tôm thẻ chân trắng có số lượng tảo xanh (tảo lam) cao.


* Triệu chứng bệnh:

– Xuất hiện phân tôm màu trắng trên nhá hoặc nổi trên mặt nước, dọc bờ ao, góc ao, cuối hướng gió.

– Tôm giảm ăn.

– Ruột tôm không đầy thức ăn, có những đốm màu vàng ở phần cuối ruột.

– Tôm chậm lớn.

Các dấu hiệu chung của WFS trong ao nuôi tôm bao gồm các chuỗi phân nổi màu trắng đến hơi vàng, đôi khi đọng lại trong các góc ao hoặc cũng có thể được tìm thấy trên khay cho ăn. Phần tiếp giáp giữa đầu và ruột giữa bị phình ra và chứa đầy chất màu trắng đến vàng vàng. Bộ phận của ruột hoặc các chuỗi phân được kiểm tra, chúng bao gồm các khối của các cơ quan dạng vermiform có bề ngoài giống như hạt lựu.

Các ao bị ảnh hưởng nghiêm trọng cho thấy tỷ lệ sống của tôm giảm 20-30% so với các ao bình thường. Cũng có sự giảm tiêu thụ thức ăn, tốc độ tăng trưởng và giảm tăng trọng trung bình hàng ngày (ADG).

* Nguyên nhân:

Bệnh có thể do nhiều hoặc một trong những tác nhân sau:

– Tảo độc tiết ra độc tố, phá hủy bộ phận gan tụy và đường ruột tôm.

– Tôm bị nhiễm khuẩn trên đường ruột.

– Do nhiễm nguyên sinh động vật hay còn gọi là ký sinh trùng (Gregarine).

– Do nhiễm độc tố thức ăn ( Aflatoxin ).

Sự hiện diện của càng nhiều Gregarine thì khả năng bị tổn thương và nhiễm trùng ở tôm nuôi càng cao. Số lượng gregarines phát triển về số lượng và nhận được chất dinh dưỡng từ vật chủ để lại tổn thương cho các bệnh nhiễm trùng xâm nhập vào. Gregarines cũng cản trở việc hấp thụ chất dinh dưỡng của nhung mao và dẫn đến tôm nuôi tăng trưởng kém.

So sánh phân trắng và ruột trắng

Ruột trắng và phân trắng là hai vấn đề khác nhau trong ao nuôi tôm có thể dẫn đến hội chứng lỏng lẻo. Nói chung, ruột trắng là do hoại tử biểu mô niêm mạc và giống như viêm ruột tăng huyết cầu, và thông thường, phân trắng là do gan tụy bị tổn thương và tế bào gan bị bong tróc. Các tế bào bong tróc được giải phóng vào ruột. và ruột có màu trắng. Nhìn chung, phân chứa các phần tử thức ăn không tiêu hóa được nhưng trong trường hợp phân trắng thì đó là từ các tế bào gan đã chết.

* Phòng bệnh:

– Thực hiện giải pháp bù đắp sinh học trong hệ thống nuôi tôm: Thay bớt lớp bùn đáy, bón vôi, phơi khô để tiêu diệt các virus, vi khuẩn gây bệnh tôm. Gây màu nước bằng phân trùn ( 6 – 10 kg/1.000 m3 nước ), định kỳ bón E.M ( 2lít/1.000 m3 ) để bù đắp, bổ sung các vi sinh vật có lợi cho ao nuôi.

– Tăng cường mức nước trong ao, độ sâu: 1,2 – 1,5 m.

– Mật độ thả nuôi nên phù hợp điều kiện thiết bị kỹ thuật hiện có.

– Cho tôm ăn thức ăn có chất lượng cao.

– Thường xuyên trộn vào thức ăn các loại men có thành phần chính: Lactobacillus sporogenes như PROBIO F2 ( 2 – 3 g/kg thức ăn )… vì vi khuẩn này sản xuất acid lactic, vừa làm tiêu hoá tốt thức ăn vừa ngăn chặn mạnh mẽ sự phát triển, xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh, làm tôm khoẻ mạnh, nhanh lớn, trộn áo bằng dịch trùn ( 1 kg cho 50 – 60 kg thức ăn ) vì dịch trùn là sản phẩm giàu đạm, các acid amin cần thiết cho động vật thuỷ sinh, các nguyên tố vi lượng Zn, Selenium …, vi khuẩn Bacillus spp giúp chuyển hoá tốt các chất dinh dưỡng có trong con trùn, thức ăn vào con tôm làm tăng sức đề kháng, kích hoạt hệ miễn dịch cho tôm nuôi.

Đồng thời diệt khuẩn nước ao nuôi bằng các sản phẩm có thành phần chính Iodine, liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

Các biện pháp Phòng ngừa & Kiểm soát

Quản lý hiệu quả sức khỏe của tôm đòi hỏi phải cân nhắc sự cân bằng tinh tế giữa vật chủ, mầm bệnh và môi trường.

Thông thường mầm bệnh xuất hiện cùng với môi trường và tôm dường như khỏe mạnh và phát triển bình thường. Thông thường các điều kiện như mật độ nuôi cao, chất lượng nước kém và các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột sẽ dẫn đến dịch bệnh ở tôm. Dưới đây là một số chiến lược quan trọng để quản lý sức khỏe đường ruột:

Các phương pháp tiếp cận bền vững để điều chỉnh hệ vi sinh đường ruột ở tôm nuôi để ngăn ngừa các bệnh đường ruột.

Việc sử dụng các vi khuẩn được chọn để cấy vào ruột (men vi sinh)
Các chất dinh dưỡng cụ thể thúc đẩy sự phát triển của các chủng vi khuẩn được chọn (prebiotics) trong ruột.

Các hợp chất tự nhiên cụ thể (chủ yếu có nguồn gốc từ men và chiết xuất thảo mộc, được gọi là “phytobiotics”) có khả năng điều chỉnh hệ vi sinh theo hướng có thành phần thuận lợi.

Hỗ trợ sự phát triển của vi khuẩn có lợi và ức chế vi sinh vật có khả năng gây bệnh trong đường ruột.

Một sự pha trộn hiệp đồng của các chất chiết xuất từ ​​thảo dược có đặc tính kìm khuẩn và diệt khuẩn chống lại các vi khuẩn gây bệnh và có khả năng gây bệnh. Hơn nữa, sự pha trộn hiệp đồng này đã được chứng minh là một chất can thiệp mạnh mẽ của vi khuẩn và điều chỉnh hiệu quả cho hệ vi khuẩn đường ruột.

Sự hiện diện của hỗn hợp phytobiotics tổng hợp cung cấp một loạt các hoạt động kháng khuẩn trong hệ tiêu hóa của tôm. Điều này cung cấp sự bảo vệ bổ sung chống lại các bệnh đồng nhiễm vi khuẩn cơ hội như bệnh Vibriosis.

* Trị bệnh:

Dùng BERBERIN: 3 viên/kg thức ăn, cho ăn liên tục 3 – 5 ngày vào 2 suất ăn mạnh nhất trong ngày, suất còn lại cho ăn BIO SUBTYL: 5 gói/kg thức ăn.

Đồng thời phải diệt khuẩn nước ao nuôi bằng các sản phẩm có thành phần chính Iodine, liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

Sau 3 – 5 ngày tôm trở lại ăn bình thường thì chuyển sang liều phòng.

Trường hợp phát hiện trong ao màu tảo quá đậm (thông thường có màu xanh lục đậm ) thì nên lập tức thay nước, giảm tảo ( dùng nước đã qua xử lý).

Để phòng trị bệnh phân trắng có hiệu quả nên kiểm tra, thường xuyên thay nước, giữ môi trường ao nuôi trong sạch.

* Lưu ý:

Sau khi sử dụng kháng sinh 3 – 5 ngày tôm ăn trở lại bình thường, nếu còn một ít phân trắng thì vẫn ngừng sử dụng kháng sinh, cho tôm ăn “ Dịch trùn + Men ProBio F2 ”đều đặn cho đến khi thu hoạch, thường xuyên thay nước, giữ môi trường ao nuôi trong sạch thì việc xử lý bệnh sẽ thành công.

“Trong dân gian có những bài thuốc kinh nghiệm áp dụng chữa bệnh phân trắng cho tôm hiệu quả như: dùng nước ép của tỏi tươi hoặc đọt ổi non hay sử dụng nước cốt của trái nhàu ngâm rượu trộn vào thức ăn cho tôm. Chúng được xem là những kháng sinh thực vật mang lại hiệu quả tốt cho việc phòng trị bệnh phân trắng”

Tôm bệnh phân trắng có nguyên nhân là do nhiễm các loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio.

Dễ dàng quan sát được các sợi phân tôm có màu trắng nổi trên mặt nước ở dưới gió.

Thỉnh thoảng sợi phân tôm cũng có màu vàng nhạt.

Một vài ngày sau khi nhiễm bệnh, tôm sẽ yếu và bơi lội lờ đờ trên mặt nước, tôm yếu dần và chết.

Tôm bệnh phân trắng thường kèm theo triệu chứng mềm vỏ hay vỏ lỏng lẻo và khối gan tụy bị teo lại.

Quản lý Kiểm soát Dịch bệnh

Kiểm tra PCR đàn bố mẹ trước khi sinh sản và kiểm tra PCR ấu trùng (PL) trước khi thả giống có thể giúp tránh sự xâm nhập của mầm bệnh vào hệ thống nuôi trồng thủy sản.

Tôm chết do biến đổi môi trường đột ngột.

Khử trùng và vệ sinh toàn bộ hệ thống nuôi có để diệt trừ mầm bệnh và các bệnh khác.

Cho tôm ăn chất kích thích miễn dịch đã được chứng minh là giúp khắc phục bệnh / nhiễm trùng.

Việc áp dụng và chế độ nuôi cấy probiotic sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh.

Các bệnh do vi khuẩn và các bệnh khác có thể được điều trị và kiểm soát bằng cách sử dụng các hóa chất khác nhau và các sản phẩm sinh học khác.

Tránh mầm bệnh: Điều này có thể được thực hiện thông qua việc lựa chọn tôm bố mẹ sạch bệnh cụ thể, loại trừ động vật mang mầm bệnh trong hệ thống nuôi, sàng lọc tôm bố mẹ khỏe mạnh và sạch bệnh, nauplius và ấu trùng thông qua hệ thống kiểm dịch.

Cải thiện điều kiện vật chủ thông qua dinh dưỡng tốt và kích thích miễn dịch: Một số phân tử vi sinh vật như probiotic phụ gia thức ăn, b 1,3 glucans, peptidoglycans, polysaccharides đã được chứng minh là có khả năng kích thích các cơ chế miễn dịch không đặc hiệu ở tôm

Cải thiện điều kiện môi trường: Môi trường có vai trò lớn và tác động đáng kể đến sức khỏe, sự tăng trưởng và sản xuất của tôm. Hầu hết các vấn đề về dịch bệnh được gây ra bởi sự suy giảm chất lượng nước và đất. Ứng dụng của chế phẩm sinh học có khả năng oxy hóa chất thải độc hại và hữu ích trong việc cải thiện chất lượng đất và nước trong ao nuôi tôm.

An toàn sinh học: Các hệ thống an toàn sinh học đã được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản cũng như các quy định và chính sách để ngăn ngừa và kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh. Các yếu tố quan trọng của an toàn sinh học là nguồn dự trữ đáng tin cậy, phương pháp phát hiện và chẩn đoán đầy đủ các bệnh có thể loại trừ, phương pháp khử trùng và diệt mầm bệnh, thực hành quản lý tốt nhất và luật thực tế và được chấp nhận. Do đó, các nguyên tắc nghiêm ngặt và các dòng hướng dẫn về an toàn sinh học phải được điều chỉnh trong các trang trại riêng lẻ và theo cụm khôn ngoan trong các khu vực canh tác.

Chí Thiệt

Bằng những kiến thức đã học hỏi được từ những bậc thầy và các bác nông dân kinh nghiệm.Tôi luôn quyết tâm mang đến cho mọi người một kho tàng kiến thức về nghành nuôi trồng thủy sản

Mới hơn Cũ hơn

post-ads1