1. Thời vụ sản xuất Artemia
– Trùng hợp với thời vụ sản xuất muối khác nhau ở từng địa phương, chẳng hạng ở khu vực Vĩnh châu Bạc liêu mùa vụ sản xuất Artemia bắt đầu từ cuối tháng 11 và kết thúc vào đầu tháng 6 dương lịch hàng năm, trong khi quá trình này kéo dài từ đầu tháng 1 và kết thúc vào cuối tháng 8 ở khu vực Cam ranh.
– Tuy nhiên, mùa vụ có thể kéo dài nếu nước mặn được chuẩn bị sớm và độ mặn trong ao được duy trì ở các tháng đầu của mùa mưa.
2. Xây dựng ao nuôi Artemia
– Chọn điểm: Ngoài các yêu cầu về kỹ thuật trong lựa chọn địa điểm cấy thả, trước khi xây dựng kế hoạch cần lưu ý các điểm sau:
+ gần nguồn nước biển (khắc phục tình trạng thiếu nước nhất là trong mùa khô).
+ thuận lợi trong giao thông (để vận chuyển nguyên liệu, phân bón…).
+ an ninh (tránh trộm cắp, mất mát).
– Diện tích: Để dể quản lý, diện tích ao nuôi khoảng 0.5 đến 1 ha là thích hợp nhất. Ao thường có dạng hình chử nhật với chiều dài gấp 3 đến 4 lần chiều rộng.
– Hướng ao: Trục dài hoặc đường chéo của ao nằm xuôi theo hướng gió chính của địa bàn, để giúp cho việc thu trứng sau này được thuận lợi, vì trứng nổi trên mặt nước sẻ được gió thổi tấp vào bờ cuối gió.
– Kỹ thuật xây dựng công trình: Ao nuôi thường được xây dựng theo hai dạng: riêng rẽ họăc trong cùng một hệ thống, ở ao riêng rẽ thường tốn kém hơn vì bờ ao cần được xây dựng chắc chắn và có hệ thống cấp tháo nước riêng biệt, ở hệ thống kết hợp chỉ cần chú ý tu sửa đê bao của toàn hệ thống còn kênh cấp tháo thì được phân bổ chung cho các ao nên giảm được chi phí.
– Các chỉ tiêu cần lưu ý trong xây dựng:
* Lưu ý: ở những nơi đất mới khai thác, hoặc dể thẩm lậu, bờ ao cần được xây dựng gia cố chắc chắn (đầm nén, tô láng bờ…)
– Công trình phụ: Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý, ao nuôi cần được lắp đặt các công trình phụ sau:
+ Lưới lọc cá: Dùng lưới nylon (cở mắc lưới từ 1 – 1,5 mm) để làm khung lọc nước hoặc may theo dạng vèo để hứng nguồn nước cấp vào ao.
+ Đập tràn: đập đất hoặc phai gổ lắp ở cống cho phép lớp nước nhạt tầng mặt (mùa mưa) được tháo bỏ nhằm duy trì độ mặn cho ao nuôi.
+ nơi bón phân: được bố trí ngay nguồn nước cấp vào ao nuôi, thường được rào lại bằng tre hoặc lá dừa nước để tránh phân bị trôi dạt.
+ Rào phá sóng: được lắp đặt ở bờ cuối gió bằng các vật liệu rẻ tiền (tre, lá dừa nước…), nhằm phá sóng để trứng dể tập trung nơi thu hoạch.
+ Vách ngăn trứng: thường dùng nylon để lót bờ nơi thu hoạch nhằm tránh trứng thất thoát vào bờ đất, tuy nhiên cách này khá đắt tiền nên người dân thường dùng bùn nhão để tô láng góc bờ chỗ thu hoạch.
3. Quá trình thu gom nước mặn để thả Artemia
Nước mặn được chuẩn bị theo kỹ thuật làm muối, theo nguyên tắc bốc hơi nước biển để tăng độ mặn, để rút ngắn thời gian này nhiều biện pháp đã được sữ dụng như: nuôi nước mỏng, bừa trục, sang ao… để có đủ lượng nước và độ mặn theo yêu cầu, thường phải mất từ 2 đến 3 tuần ở khu vực Vĩnh châu Bạc liêu.
4. Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống
– Lượng nước và độ mặn: Lúc đầu vụ do nhiệt độ môi trường còn thấp, chỉ cần mực nước ngập trảng (đáy ao) vài phân (một đến hai lóng tai) là có thể xuống giống, tuy nhiên cũng cần tính toán sao cho lúc cá thể đạt cở trưởng thành mực nước phải đủ sâu để Artemia lẩn tránh sự săn bắt của chim.
– Mặc dù Artemia có thể sống ở độ muối thấp, ta không nên cấy thả Artemia ở độ muối dưới 80 phần ngàn (8 chữ), vì lúc này còn hiện diện rất nhiều: Fabrea, copepod, tảo độc…hoặc tôm cá dữ làm hạn chế tăng trưởng hoặc tiêu diệt hoàn toàn số Artemia mới thả.
– Phòng ngừa địch hại: Địch hại thường gặp và cách phòng ngừa
– Chuẩn bị thức ăn cho ao nuôi Artemia: Bước này chỉ cần thiết cho những ao nghèo tảo thức ăn (nước ao không màu hoặc màu nhạt), để gây màu thường dùng các loại phân vô cơ (urea, lân…) hoặc hữu cơ (phân heo, phân gà, phân bò, phân dê, phân cút…) với liều lượng.
+ Phân hữu cơ: 500 đến 1000 kg/ha
+ Phân vô cơ: 50 đến 100 kg/ha
5. Thả giống
a) Kỹ thuật ấp nở
– Dụng cụ: cân, xô, chậu, lưới lọc, ống dẫn khí, đá bọt, máy thổi khí, đèn huỳnh quang…
– Điều kiện ấp nở:
Á+ nh sáng: thắp đèn huỳnh quang cách mặt nước bể ấp khoảng 2 tấc.
+ Nhiệt độ: 25 – 30 độ C.
+ Độ muối : nước biển 35 ppt (ba chữ rưỡi) được dùng để ấp trứng.
+ pH: 8,1 – 8,3
+ Mật độ ấp: không nên nhiều hơn 5g trứng cho mỗi lít nước
– Thao tác: Nước được lọc sạch trước khi cho vào bể ấp; cân trứng theo đúng mật độ qui định cho vào bể ấp, kết hợp sục khí để đảo trộn nhằm thúc đẩy quá trình hút nước của trứng để kích thích sự phát triển phôi. Sau 20 – 24 giờ trứng nở tập trung, sẳn sàng cho việc cấy giống.
b) Những điểm cần lưu ý trong thao tác thả giống
– Cở giống thả: Cấy thả bằng giống mới nở (Naupli): hình thức này rất phổ biến, đặc biệt ở những nơi mới bắt đầu thử nghiệm nuôi Artemia. Cấy giống cở nhỏ (Naupli giai đoạn I) có trở ngại là rất khó quan sát cá thể ở những ngày đầu, nhưng chúng có thể chịu đựng sự sai khác lớn về nhiệt độ và độ muối giữa nơi ấp nở và nơi cấy thả; do đó nếu kéo dài thời gian ấp nở ấu thể sẻ phát triển đến giai đoạn lớn hơn (Naupli giai đoạn II; tuỳ điều kiện nhiệt độ trong bể ấp, thường thời gian để chuyển từ Naupli giai đoạn I sang giai đoạn II mất khoảng 5 – 8 giờ), khả năng trên sẻ giãm đi làm gia tăng tỉ lệ tử vong lúc cấy thả. Cấy thả bằng giống lớn: khi cấy thả theo phương pháp này cần lưu ý là phải thuần hoá giống thả (cho một phần nước ao định thả vào thùng giống vừa chuyển đến) để chúng thích nghi dần với nhiệt độ và độ muối trước khi cấy thả vào ao.
– Thời gian thả thích hợp: Thích hợp nhất là thời gian lúc sáng sớm (6 – 7 giờ) hoặc chiều tối (17 – 19 giờ), điều này cần nắm để tính toán kế hoạch ấp nở cho hợp lý.
– Mật độ thả: Thường mật độ thả ở ao đất được đề nghị là 50 cá thể cho mỗi lít, tuy nhiên theo quan sát thực tế nếu ao nuôi được cấy thả ở mật độ lớn hơn 100 cá thể trên lít thì sau 2 tuần ao nuôi bắt đầu cho trứng, trong khi ở ao có mật độ thưa, quần thể phải trải qua giai đoạn tăng gia mật độ trước khi tham gia cho trứng.
– Vận chuyển giống: Nếu nơi cấy thả khá xa (thời gian vận chuyển từ một giờ trở lên) nơi ấp nở hoặc ao cung cấp giống, giống nở cần được xan thưa, đóng oxy và hạ nhiệt độ của môi trường vận chuyển để giãm thấp tỉ lệ hao hụt.
– Nơi thả giống: Thích hợp nhất là bờ ao phía trên hướng gió, hoặc đầu nguồn nước cấp nhằm đãm bảo cho giống được phân bố đều trong ao.
– Nơi thu mẫu để đánh giá: Đối với giống lớn thì dể dàng quan sát sự tồn tại của chúng trong ao vừa cấy thả, ngược lại nếu cấy giống ấp nở thì rất khó phát hiện chúng trong hai ba ngày đầu; tuy nhiên chúng có tập tính phân bố ở nơi trên hướng gió, hoặc góc bờ. Dùng vợt bằng lưới mịn để thu và quan sát mẫu.
– Quan sát mẫu: Ấu thể Artemia có màu trắng sữa hoặc trắng hồng, chúng bơi lội theo đường zig-zăg nhưng đường di chuyển ngắn hơn của Copepod, có tập tính hướng quang dương (tập trung nơi có nhiều ánh sáng).
– Những dấu hiệu xấu cho ao nuôi: Với sự xuất hiện riêng lẻ hoặc kết hợp của các yếu tố sau đây: fabrea, copepod, cá dữ, lab-lab, độ trong thấp, nhiệt độ cao, chim xuất hiện…các biện pháp khắc phục như đã nêu trên.
6. Những biện pháp chính trong quản lý ao nuôi
– Cấp – tháo nước: Nhằm bù đắp sự thất thoát cột nước do thẩm lậu hoặc bốc hơi, mặt khác để cung cấp tảo thức ăn (nước xanh), lượng nước cấp vào ao phải thoả mãn việc duy trì độ muối (90 – 120 phần ngàn) và độ đục (25 – 35 cm) trong phạm vi tối hảo. Tương tự, để đãm bảo chất lượng nước trong ao, thường thì sau một tháng rưỡi đến hai tháng tính từ lúc xuống giống, nên tiến hành thay từ 30 – 50% lượng nước trong ao.
– Bón phân – cho ăn:
+ Bón phân (phân gà) 500 – 1.000 kg/ha/tháng, Urea 50 -100 kg/ha/tháng. Phân gà (hữu cơ) được bón trực tiếp vào ao Artemia (chúng lọc các chất dinh dưỡng hoặc vi khuẩn có trong phân) hoặc ao bón phân để kích thích tảo phát triển trước khi đưa vào ao nuôi; đối với Uréa (vô cơ) chỉ nên bón ở ao bón phân. Để đơn giản trong việc đánh giá cơ ở thức ăn tự nhiên của ao bón phân và ao nuôi, ngoài độ đục cần thiết như đã nêu trên, thang màu đề nghị dưới đây dùng để đánh giá thành phần tảo trong ao:
+ Cho ăn: thỉnh thoảng cám gạo được bổ xung (từ 10 đến 20 kg/ha/ngày) khi ao nuôi thiếu thức ăn, tuy nhiên hiệu quả sử dụng cám gạo của Artemia rất thấp (từ 10 đến 20%), nên phần lớn cám gạo kết lắng xuống đáy gây ô nhiễm môi trường (có thể khắc phục bằng cách sàng lọc kỹ trước khi đưa xuống ao), vì giá đắt nên việc dùng cám gạo không kinh tế lắm.
– Chế độ bừa trục: Vừa có tác dụng đão trộn phân bón trong ao, vừa có tác dụng diệt các mầm rong đáy (lab-lab), khi độ đục thích hợp có thể giãm chế độ bừa trục để hạ giá thành trong chi phí sản xuất.
– Gia cố công trình: Hàng ngày bên cạnh các hoạt động nêu trên, trong quản lý ao cần phải thường xuyên chăm sóc bờ bọng tránh rò gỉ thẩm lậu, kiểm tra lưới lọc để tránh sự xâm nhập của cá dữ…
7. Thu Hoạch và sơ chế sản phẩm
Tuỳ theo yêu cầu mà sản phẩm thu hoạch từ ao Artemia có thể là trứng bào xác hoặc sinh khối.
– Trứng bào xác (cyst): Tuỳ theo cách quản lý ao và tình hình phát triển của quần thể, thường sau 2 tuần hoặc hơn tính từ lúc xuống giống, con cái bắt đầu mang trứng: trứng trắng (đẻ con), hoặc trứng nâu (trứng bào xác). Sau vài ngày ở ao có con cái mang trứng bào xác, ta có thể quan sát trứng nổi trên mặt của góc ao cuối gió có màu vàng sậm đến vàng nâu.
Dùng vợt lưới mịn hoặc ca để vớt trứng, do trứng có lẩn rác bẩn nên cần tách trứng bằng các lưới có các cở khác nhau:
+ Lưới I: 1.000 um (1mm)
+ Lưới II: 400 um (0,4mm)
+ Lưới III: 100 – 150 um (0,1 – 0,15mm)
Sau đó rữa sạch lại nhiều lần bằng nước trong ao, đoạn ngâm trứng trong nước muối bảo hoà (300 ppt = 25 -30 chữ), hàng ngày nên đảo trộn trứng và rút bỏ cặn dưới đáy vật chứa. Định kỳ hàng tuần nên chuyển trứng cho sấy khô và bảo quản.
– Sinh khối (biomass): Được dùng làm thức ăn phổ biến trong các trại giống và trại ương tôm cá. Để duy trì quần thể Artemia, một phần sinh khối trong ao nuôi được thu hoạch theo định kỳ (hàng tuần hoặc hàng tháng). Sinh khối được thu bằng cách kéo lưới trực tiếp trong ao nuôi hoặc tháo một phần nước trong ao nuôi và dùng lưới để chặn sinh khối lại. Trong sử dụng có thể dùng sinh khối tươi trực tiếp hoặc chế biến hay đông lạnh để dùng dần về sau.
8. Một số hiện tượng thường gặp trong ao nuôi và cách phòng ngừa
– Địch hại: cá, tôm, copepoda, chim (xem thêm phần địch hại trong phần chuẩn bị ao).
– Một số hiện tượng khác:
+ Đốm đen (Leucotrix/black spots).
+ Đốm trắng.
+ Đuôi dài (“thả diều” = long tail pellet).
+ Chậm lớn: Môi trường sống không thích hợp (thiếu thức ăn, nhiệt độ, độ muối không phù hợp…).
+ Không tham gia sinh sản (không đẻ hoặc túi ấp rổng): Thiếu ăn không đủ năng lượng cho tái phát dục hoặc để phóng trứng.
+ Chết hàng loạt do chênh lệch độ muối hoặc nhiệt độ: Hiện tượng này dể thấy, đặc biệt khi cấy thả sinh khối cở lớn vào ao mới.
+ Hiện tượng co cụm (boiling effect): Quần thể khoẻ mạnh, đặc biệt là những ngày nắng nhiều.
+ Nổi đầu vào sáng sớm: Khi ao bẩn, hoặc tảo phát triển dày đặc và ngày hôm trước có mây hậu quả làm thiếu oxy về đêm nên Artemia nổi đầu vào sáng sớm hôm sau.